Động cơ dc là gì? Các công bố khoa học về Động cơ dc

Động cơ DC là một loại động cơ điện mà sự chuyển đổi điện năng thành năng lượng cơ bằng cách sử dụng hiện tượng tự quay từ từ tích tụ trong từng khối lực dịch c...

Động cơ DC là một loại động cơ điện mà sự chuyển đổi điện năng thành năng lượng cơ bằng cách sử dụng hiện tượng tự quay từ từ tích tụ trong từng khối lực dịch chuyển của vòng cuộn cảm của máy. Động cơ DC hoạt động trên nguyên tắc tự quay trong từng trường từ tạo ra bởi dòng điện trên cuộn cảm để tạo ra chuyển động mec-đa-ni-xong (ví dụ như chuyển động quay) của rotor (củng cố từ từ tích tụ từ điện). Điều này tạo ra một dòng điện xoay chiều giữa bộ phận cố định (stator) và bộ phận xoay (rotor) trong động cơ.
Động cơ DC (Direct Current) là một loại động cơ điện mà nguồn cấp điện đầu vào dùng để cung cấp dòng điện một chiều. Điện năng từ nguồn cấp được chuyển đổi thành năng lượng cơ thông qua sự tương tác giữa từ trường và dòng điện.

Cấu tạo cơ bản của động cơ DC bao gồm hai thành phần chính: stator (bộ phận cố định) và rotor (bộ phận quay). Stator chứa bobin cảm ứng được đặt thành từng cuộn xoắn và được gắn chặt vào khung. Khi dòng điện được cấp cho bobin, nó tạo ra một trường từ xung quanh nó.

Rotor chứa nam châm hoặc từ tích tụ. Khi rotor được đặt trong trường từ của stator và dòng điện chạy qua nó, sự tương tác giữa trường từ của stator và từ tích tụ của rotor tạo ra một lực tác động lên rotor. Điều này tạo ra một chuyển động quay.

Để đảm bảo quay theo một hướng cụ thể, động cơ DC sử dụng một bộ điều khiển (thường là bộ điều khiển điện tử) để thay đổi hướng dòng điện vào các cuộn cảm ở stator. Bằng cách thay đổi hướng dòng điện, hướng của lực tác động trên rotor cũng thay đổi, từ đó điều chỉnh tốc độ và hướng quay của động cơ.

Động cơ DC có nhiều ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày và công nghiệp, chẳng hạn như trong các thiết bị như máy tính, máy in, tủ lạnh, máy kéo, xe điện và hệ thống tự động hoá công nghiệp.
Để hiểu chi tiết hơn về nguyên tắc hoạt động của động cơ DC, chúng ta có thể tách thành phần của nó ra để phân tích từng phần:

1. Bộ Stator (bộ phận cố định):
- Stator là phần không di động của động cơ DC.
- Nó chứa một số cuộn dây cảm ứng hoặc từ cung cấp điện năng cho động cơ.
- Stator cũng chứa một hệ thống nam châm hoặc từ từ tích tụ (dựa vào loại động cơ DC) để tạo ra trường từ.

2. Bộ Rotor (bộ phận quay):
- Rotor là phần có khả năng xoay của động cơ DC.
- Nó chứa nam châm hoặc từ từ tích tụ (tương tự như stator) và được gắn vào trục quay.
- Khi dòng điện chạy qua bobin cảm ứng của stator, nó tạo ra một trường từ xung quanh rotor.
- Trong động cơ DC có từ tích tụ, rotor có thể chất điện cùng hướng mang điện, tương tác với từ trường và tạo ra lực cơ.

3. Bộ Điều khiển:
- Động cơ DC cần một bộ điều khiển để thay đổi hướng dòng điện đến các cuộn cảm ở stator.
- Bộ điều khiển bao gồm các thiết bị điện tử như trọng tải, transistor, biến trở, v.v.
- Bằng cách thay đổi hướng dòng điện, bộ điều khiển điều chỉnh tốc độ và hướng quay của động cơ DC.

Trong khi hoạt động, dòng điện đi qua các cuộn cảm ở stator tạo ra một trường từ liên tục. Sự tương tác giữa trường từ của stator và từ trường của rotor tạo ra lực tác động lên rotor, dẫn đến chuyển động quay.

Động cơ DC có thể điều chỉnh tốc độ và hướng quay thông qua bộ điều khiển, làm cho nó linh hoạt và phổ biến trong các ứng dụng khác nhau. Nó cũng có hiệu suất cao, độ tin cậy và tuổi thọ dài. Tuy nhiên, động cơ DC cũng có nhược điểm là có thể gây tạo không gian và chi phí bảo trì cao hơn so với các loại động cơ khác như động cơ AC.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "động cơ dc":

ANTIBACTERIAL ACTIVITIES AND CHEMICAL COMPOSITION OF ESSENTIAL OIL OF BLUMEA BALSAMIFERA (L.) DC., DISTRIBUTED IN LAMDONG PROVINCE, VIETNAM
Trong nghiên cứu này, thành phần hoá học và hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu thu từ lá tươi loài Blumea balsamifera (L.) DC. phân bố ở Lâm Đồng, Việt Nam đã được công bố. Tinh dầu lá tươi của loài B. balsamifera (L.) DC. được thu nhận bằng phương pháp cất kéo hơi nước và được làm khan bằng Na2SO4. Bằng phương pháp sắc ký khí ghép khối phổ (GC/MS) đã xác định được 36 thành phần hoá học có trong tinh dầu lá tươi loài B. balsamifera (L.) DC. ở Lâm Đồng, trong đó các hợp chất chính là camphor (43.69%), caryophyllene (12.71%), caryophyllene oxide (5.98%), β-eudesmol (4.84%), thymol hydroquinone dimethyl ether (4.63%), và t-eudesmol (3.32%). Bên cạnh đó, phương pháp khuếch tán giếng thạch cũng đã được sử dụng để đánh giá hoạt tính kháng khuẩn của tinh dầu này lên hai chủng vi sinh vật là Staphylococcus aureus và Escherichia coli, thông qua kích thước vòng kháng khuẩn cho thấy tinh dầu này có khả năng kháng cả ha chủng vi sinh vật thử nghiệm.
#Antibacterial activity #Blumea balsamifera #Essential oil #Lamdong.
Điều khiển hệ thống chỉnh lưu cầu 3 pha thyristor – động cơ điện một chiều có thông số thay đổi ứng dụng logic mờ
Hiện nay, động cơ điện một chiều vẫn đang được ứng dụng rất phổ biến trong các lĩnh vực kinh tế và khoa học kĩ thuật như ở các nhà máy cán thép, tàu điện ngầm, các cánh tay robot... Để thực hiện các nhiệm vụ trong công nghiệp, trong các dây chuyền sản xuất, yêu cầu tốc độ của động cơ điện một chiều phải ổn định và đòi hỏi độ chính xác cao. Đối với động cơ điện một chiều, các thông số thường bị thay đổi nên việc sử dụng các bộ điều khiển kinh điển gặp nhiều hạn chế làm ảnh hưởng chất lượng điều chỉnh. Bài báo đưa ra kết quả mô phỏng điều khiển hệ thống truyền động chỉnh lưu cầu ba pha Thyristor – Động cơ điện một chiều theo giải thuật mờ nhằm ổn định tốc độ của động cơ điện một chiều khi thông số của hệ thống thay đổi.
#PID #điều khiển mờ #chỉnh lưu cầu ba pha Thyristor #động cơ DC
Điều khiển vị trí bàn trượt ứng dụng mạng nơ-ron
Bài báo này đề xuất một giải pháp ứng dụng mạng thích nghi nơ-ron dựa trên suy luận mờ (ANFIS) để điều khiển vị trí bàn trượt. Mục đích của nghiên cứu này là nhằm đánh giá mức độ ưu việt của bộ điều khiển thông minh so với bộ điều khiển PID trong điều khiển vị trí hệ động cơ – bàn trượt, qua đó xác định phương pháp kết hợp dùng mạng nơ-ron với bộ điều khiển kinh điển sẽ mang lại kết quả tốt hơn, đưa ra các cơ sở để lựa chọn phục vụ trong thiết kế, sản xuất các máy công cụ. Để đạt được mục tiêu này, tác giả đã sử dụng phần mềm Matlab và Simulink làm công cụ xây dựng mô hình và mô phỏng hệ thống, bao gồm mô hình hóa đối tượng điều khiển, xây dựng bộ điều khiển PID, bộ điều khiển mạng nơ-ron. Kết quả mô phỏng cho thấy việc điều khiển vị trí bàn trượt ứng dụng mạng nơ-ron cho đáp ứng hệ thống nhanh, sai lệch vị trí của hệ thống được đảm bảo.
#PID #ANFIS #bàn trượt #mạng nơ-ron #điều khiển thông minh #động cơ DC
Một vài ghi nhận về lớp từ vựng trong lời bình phóng sự trên Truyền hình Đồng Tháp 1
Bài viết bàn luận lớp từ vựng trong lời bình phóng sự trên Truyền hình Đồng Tháp 1, thông qua khảo sát 200 phóng sự, được phát sóng trong 6 tháng đầu năm 2017. Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy có 3 lớp từ tiêu biểu làm nên đặc trưng của ngôn ngữ lời bình phóng sự truyền hình: (1) Từ Hán - Việt, xuất hiện trong tất cả các phóng sự; (2) Từ chỉ hình ảnh xuất hiện trên màn hình, có trong 90/200 phóng sự; (3) Động từ mạnh, có trong 110/200 phóng sự.
#từ Hán - Việt #từ chỉ định #động từ mạnh #lời bình #phóng sự
Nghiên cứu về Mô hình động cơ đồng trục một chiều trong ứng dụng hàng hải Dịch bởi AI
2023 International Conference on System Science and Engineering (ICSSE) - - Trang 473-477 - 2019
Mục tiêu chính của bài báo này là nghiên cứu mô hình hóa động cơ đồng trục một chiều (DCDCM) và kiểm tra các thông số chính của DCDCM trên mô hình thực nghiệm. Động cơ DCDCM bao gồm hai rotor được gọi là rotor trong và rotor ngoài. Rotor trong và rotor ngoài quay ngược chiều nhau. Các trục của rotor trong và rotor ngoài trùng khớp và được lắp đặt trên hai ổ bi riêng biệt. Để chứng minh ý tưởng này, mô hình toán học được xây dựng qua sự kết hợp giữa mô hình toán học của động cơ một chiều và mô hình toán học của động cơ đồng trục một pha. Kết quả mô phỏng mô hình toán học trong Matlab cho thấy giả thuyết của thiết kế là đúng. Kết quả kiểm tra động cơ DCDCM từ mô hình thực nghiệm khớp với kết quả mô phỏng của DCDCM trong Matlab. Do đó, động cơ DCDCM có thể thay thế cho các loại chân vịt khác, đặc biệt là trong các ứng dụng hàng hải.
#động cơ đồng trục #tải mô-men động lực #DAQ #Matlab Simulink #mô hình toán học
ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOÁ XẠ TRỊ ĐỒNG THỜI TRIỆT CĂN UNG THƯ THỰC QUẢN GIAI ĐOẠN III SỬ DỤNG PHÁC ĐỒ PC HÀNG TUẦN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả hoá xạ trịđồng thời triệt căn (HXTĐTTC) trong điều trị (ĐT) ung thư thực quản (UTTQ) giai đoạn III đồng thời nhận xét một số tác dụng không mong muốn (TDKMM) của phương pháp ĐT này. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả hồi cứu kết hợp tiến cứutrên 42 bệnh nhân (BN) được xạ trị IMRT hoặc 3D – CRT (liều 50,4 Gy cho vùng thể tích dự phòng, 60 – 66 Gy cho vùng u và hạch nguyên phát) kết hợp hóa chất Paclitaxel – Carboplatin (PC) hàng tuần (liều Paclitaxel 50mg/m2, Carboplatin AUC 2pha truyền tĩnh mạch ngày 1, chu kỳ 7 ngày trong quá trình xạ trị), đánh giá kết quả điều trị trên lâm sàng, trên cắt lớp vi tính (CLVT) theo RECIST và tác dụng không mong muốn sau 4 tuần kể từ khi kết thúc điều trị. Kết quả: Tỷ lệ đáp ứng sau điều trị trên lâm sàng đạt 90,5%. Tỷ lệ đáp ứng khách quan đạt 85,7%, trong đó đáp ứng hoàn toàn đạt tỷ lệ 33,3% và không có BN tiến triển sau điều trị trong thời gian theo dõi, đánh giá. Qua phân tích một số yếu tố liên quan đến đáp ứng điều trị bao gồm: giai đoạn T (T2 đáp ứng tốt hơn T3, p = 0,023), giai đoạn N (N1 đáp ứng tốt hơn N2, p = 0,001), kích thước u (kích thước u nhỏ đáp ứng tốt hơn kích thước u lớn, p = 0,033), kỹ thuật xạ trị (xạ trị bằng kỹ thuật IMRT cho hiệu quả tốt hơn kỹ thuật 3D – CRT, p = 0,006). TDKMM sớm hay gặp liên quan đến xạ trị bao gồm viêm da (61,9%), viêm thực quản (38,1%) và viêm phổi (11,9%) độ 1, độ 2. Hầu hết các TDKMM trên hệ huyết học, tiêu hoá, gan thận ở độ 1 và 2; chỉ gặp 2,4% bệnh nhân giảm bạch cầu độ 3. Kết luận: HXTĐTTC với phác đồ PC hàng tuần điều trị BN UTTQ giai đoạn III đảm bảo tốt kế hoạch điều trị, TDKMM chấp nhận được và hiệu quả điều trị tương đương với phác đồ CF.
#Hóa xạ trị đồng thời triệt căn #ung thư thực quản giai đoạn III
Ứng dụng mạng nơ-ron tuyến tính hóa phản hồi điều khiển thích nghi vị trí bàn trượt
Điều khiển vị trí bàn trượt trong các máy gia công cơ khí là vấn đề rất quan trọng, đặt biệt trong các máy CNC đòi hỏi vị trí bàn trượt cần phải có độ chính xác cao. Đa số trong các máy gia công cơ khí, bộ điều khiển tốc độ, vị trí... đều sử dụng bộ điều khiển PID nên ít có khả năng thích nghi với nhiễu cũng như sự thay đổi tham số của mô hình. Bài báo này đề xuất một giải pháp ứng dụng bộ điều khiển NARMA-L2 (Nonlinear Autoregressive-Moving Average) là bộ điều khiển nơron thích nghi. Ý tưởng của bộ điều khiển loại này là xấp xỉ gần đúng hệ thống động lực học phi tuyến thành hệ thống động lực học tuyến tính. Ban đầu là việc xây dựng mô hình hệ thống, sau đó dùng bộ điều khiển NARMA-L2 để nhận dạng hệ thống và tạo ra tín hiệu điều khiển cung cấp cho đối tượng. Kết quả nghiên cứu cho thấy khả năng thích nghi với nhiễu và sự thay đổi của tham số mô hình trong quá trình vận hành của bộ NARMA-L2 tốt hơn bộ PID.
#PID #NARMA-L2 #mạng nơ-ron #điều khiển thông minh #bàn trượt #động cơ DC
Các hệ thống quản lý che phủ đất trong vườn cây ăn trái lâu dài ảnh hưởng đến cộng đồng vi sinh vật trong đất và mức độ bệnh tái trồng cây táo Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 304 - Trang 209-225 - 2008
Bệnh tái trồng cây táo (Apple replant disease - ARD) là một hội chứng bệnh trong đất có nguyên nhân phức tạp, ảnh hưởng đến rễ cây táo trong các vườn cây táo được tái trồng, dẫn đến sự phát triển kém của cây và năng suất giảm. Để điều tra xem các hệ thống quản lý che phủ đất (GMS) khác nhau có ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của ARD hay không, chúng tôi đã trồng các cây giống táo trong một vườn ươm ngoài trời trong các chậu chứa đất vườn từ các ô nghiên cứu nơi đã duy trì bốn GMS trong 14 năm tại một vườn cây gần Ithaca, NY, Hoa Kỳ. Các phương pháp GMS được thử nghiệm là: (1) thuốc diệt cỏ trước khi nảy mầm (Pre-H), duy trì các dải đất trống bằng cách áp dụng hỗn hợp thuốc diệt cỏ glyphosate, norflurazon và diuron hàng năm; (2) thuốc diệt cỏ sau khi nảy mầm (Post-H), duy trì sự che phủ cỏ thưa bằng cách áp dụng glyphosate vào tháng 5 và tháng 7 hàng năm; (3) cỏ mái cắt (Mowed Sod); và (4) lớp mul (Mulch). Đất cũng được lấy mẫu từ lối đi cỏ được duy trì giữa các cây trong vườn (Grass Lane). Các mẫu đất (đất vườn cây) được tiệt trùng hoặc không điều trị, được đặt vào chậu 4-L và trồng một cây giống táo mỗi chậu. Sau 3 tháng phát triển, đất (đất kiểm tra sinh học) và rễ cây táo (rễ kiểm tra sinh học) được lấy mẫu từ mỗi chậu và quần thể vi sinh vật định cư trên các mẫu được xác định. Sự phát triển của cây giống bị giảm trong các mẫu đất lấy từ cả bốn phương pháp GMS so với đất lối đi cỏ. Trong số các phương pháp GMS, khối lượng sinh khối của cây giống lớn hơn trong đất Pre-H so với đất Post-H. Các cộng đồng vi sinh vật trong đất và khả năng dinh dưỡng có sự khác biệt giữa cả bốn phương pháp GMS và Grass Lane. Quần thể nematode rễ (Pratylenchus sp.) cao hơn trong Mowed Sod so với các phương pháp GMS khác. Thành phần cộng đồng vi khuẩn và nấm trong đất được đánh giá ở đất Orchard và Bioassay cũng như rễ Bioassay bằng phương pháp dấu vân tay DNA (T-RFLP). Phân tích dư thừa chỉ ra rằng các mẫu đất từ các phương pháp GMS khác nhau ảnh hưởng khác nhau đến khối lượng sinh khối của cây giống. Một thư viện clone gồm 267 vi khuẩn trong đất được phát triển từ các mẫu đất Orchard và rễ Bioassay. Các cộng đồng này chủ yếu được chiếm bởi Acidobacteria (25% các trình tự), Actinobacteria (19%), δ-Proteobacteria (12%), β-Proteobacteria (10%), và các tỷ lệ này khác nhau giữa các đất GMS. Các thành viên của họ Comamonadaceae chỉ được phát hiện trong đất giữa các hàng cây, không có trong Grass Lanes. Các trình tự chiếm ưu thế trong số 145 nấm được clone có liên quan đến rễ cây giống táo là Fusarium oxysporum (16% trình tự), một loại nấm đất chưa nuôi cấy được nộp dưới mã số DQ420986 (12%), và Rhodotorula mucilaginosa (9%). Trong một phân tích dư thừa, các yếu tố bao gồm thành phần cộng đồng nấm và oomycete, tỷ lệ hô hấp của đất, kích thước quần thể vi khuẩn và nấm có thể nuôi cấy, hàm lượng chất hữu cơ trong đất và khả năng dinh dưỡng, không phải là những yếu tố dự đoán chính xác về khối lượng sinh khối của cây giống táo trong các mẫu đất này. Các phương pháp GMS khác nhau được sử dụng bởi những người trồng táo có thể ảnh hưởng đến mức độ nghiêm trọng của ARD trong các cây được tái trồng, nhưng các yếu tố edaphic thường liên quan đến độ phì nhiêu của đất có thể không dự đoán đáng tin cậy sức khỏe rễ cây và sự thành công trong việc thiết lập các vườn cây táo tái trồng.
#bệnh tái trồng cây táo #hệ thống quản lý che phủ đất #cộng đồng vi sinh vật #sức khỏe rễ cây
Điều khiển vòng quay động cơ không chổi than bằng bộ điều khiển tuyến tính dùng incremental encoder
Journal of Technical Education Science - Tập 7 Số 1 - Trang 55-60 - 2012
Bài báo này trình bày bộ điều khiển tuyến tính cho động cơ không chổi than sử dụng trong máy bay mô hình dùng encoder. Mục đích của bộ điều khiển này là giữ ổn định số vòng quay động cơ. Các kết quả được thực hiện bằng đo đạc thí nghiệm thực tế
#BLDC #PID BLDC
Kết quả gây tắc động mạch phế quản sau khi chụp mạch MDCT ở bệnh nhân ho ra máu
Mục tiêu: Đánh giá kết quả gây tắc động mạch phế quản sau khi chụp mạch đa dãy (MDCT) ở bệnh nhân ho ra máu.         Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu trên 40 bệnh nhân ho ra máu tại Khoa Cấp cứu và Khoa Lao hô hấp, Bệnh viện Phổi Trung ương từ tháng 2/2020 đến tháng 2/2021. Bệnh nhân được chia làm 3 nhóm dựa vào nguyên nhân ho ra máu: Lao phổi (nhóm 1, n = 18), giãn phế quản (nhóm 2, n = 15) và u nấm Aspergillus (nhóm 3, n = 7). Các bệnh nhân được chụp mạch MDCT trước khi tiến hành gây tắc động mạch phế quản, sau kỹ thuật được theo dõi dọc để đánh giá hiệu quả điều trị.      Kết quả: Độ tuổi phổ biến nhất là từ 30 - 45 tuổi ở nhóm 1, trên 60 tuổi ở nhóm 2 và nhóm 3. Ho ra máu mức độ trung bình và nặng chiếm ưu thế, lần lượt là 42,5% và 37,5%. Kết quả gây tắc động mạch phế quản: Thành công lâm sàng tức thì đạt 97,5%, ho ra máu tái phát trong 3 tháng đầu thấp (2,6%), tỷ lệ tái phát chung là 12,8% với thời gian theo dõi trung bình là 6,1 ± 1,2 tháng.        Kết luận: Kỹ thuật gây tắc động mạch phế quản sau khi chụp mạch MDCT đạt hiệu quả cao.
#Ho ra máu #gây tắc động mạch phế quản #chụp mạch MDCT
Tổng số: 19   
  • 1
  • 2